Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2013

Xóm cầu mới (Nhất Linh, xuất bản 1974)


(Vangbongmotthoi) - Xóm cầu mới là tiểu thuyết của nhà văn Nhất Linh trong nhóm Tự lực văn đoàn, xuất bản chính thức năm 1974.

Nhất Linh tên thật là Nguyễn Tường Tam, còn là một nhà hoạt động chính trị. Tuy nhiên, người ta biết về ông nhiều hơn với tư cách là một nhà văn, trong số những người sáng lập ra Tự lực văn đoàn.

Tiểu thuyết Xóm cầu mới được ông sáng tác trong một thời gian rất dài (1949-1957), nhưng viết dở dang.

Dưới đây là ảnh bìa cuốn tiểu thuyết Xóm cầu mới do nhà xuất bản Phượng Giang xuất bản năm 1974 tại Sài Gòn.

Tình trạng: hiếm

Vui lòng xem các thông tin liên quan về tác giả và tác phẩm ở phần dưới.

Hoa Văn

---------------------------------------------------------------



---------------------------

Lời mở đầu tiểu thuyết Xóm Cầu Mới

Xóm Cầu Mới là một cái xóm nhỏ ở cạnh một chiếc cầu gỗ cũ đã long mất gần một nửa số ván và gẫy mất gần một nửa số chân, cũng may ván long đều và chân cầu cũng gẫy đều nên cầu còn đứng vững và xe cộ còn qua lại được. Chiếc cầu gỗ sơn hắc ín và có lẽ từ lúc bắc đến giờ chưa sơn lại một lần nào. 

Con đường qua cầu là một con đường đất, đi được ô tô con, chạy khỏi cầu đã dăm cây số thì dừng lại ở trên một bến đò không có phà qua sông, vì ở bên kia sông không bao giờ từng có đường. Ở đầu cầu, sở Lục Lộ mấy chục năm trước đã cẩn thận đóng một tấm biển báo là đường cụt, nhưng vì cái biển đã mọt và rơi từ lâu rồi nên thỉnh thoảng có ô tô đi lầm đường cứ phăng phăng chạy thẳng. 

Người trong xóm, mỗi lần có ô tô đi qua, đều nhôn nhao cả lên vì đó là một sự rất hiếm có, trẻ con thì kêu la ầm ĩ, giơ tay đón mừng một cảnh lạ mắt. Không một ai muốn báo cho ô tô biết là đường cụt, cả xóm ai cũng xao lãng công việc, ngong ngóng đợi ô tô trở về. Vào quãng hai mươi phút sau, từ nhà nọ truyền sang nhà kia những tiếng reo mừng "Nó kia rồi!" "Đó nó về đó rồi!" Ô tô trở về bởi vì nếu không trở về thì chỉ còn mỗi một lối là đâm đầu xuống sông. Ô tô trở về chạy có vẻ hục hặc tức giận, nhảy chồm chồm trên con đường gồ ghề và cố tung thật nhiều bụi vào mũi những người dân xóm như để phạt họ và sở Lục Lộ. Dân xóm người thì lật vạt áo che mặt, người thì nhắm mắt bịt mũi, ngậm miệng nín thở; nhưng khi xe đi khỏi và bụi mù đã quang, họ nhìn nhau mỉm cười, trong mắt đầy vẻ vui tinh nghịch thấy những người trên xe đã bị lừa và bị tức. 

Đời dân xóm liền với đời chiếc cầu nên bất cứ một tin gì lạ về chiếc cầu cũng làm họ thao thức và xôn xao bàn tán. Bốn năm trước có một người làm ở sở Lục Lộ, trong lúc vui câu chuyện, đã nói là sẽ sơn lại cầu. Sơn lại thì họ không cần lắm nhưng sơn tức là phải sửa chữa lại, dân xóm tán ra như vậy. 

"Sơn tức là phải chữa lại cầu", câu ấy ròng rã bốn năm trời vẫn được nhắc đến luôn ở cửa miệng những người dân xóm, nghèo tiền nhưng rất giầu hy vọng hão. 

Còn duyên do vì đâu lại oái oăm bắc một chiếc cầu vô dụng và đắp một con đường tắc tị thì không ai hiểu gì cả và sở Lục Lộ bây giờ có lẽ cũng không hiểu nốt. 

Nhưng cũng nhờ có con đường tắc tị nên mới có chiếc cầu gỗ và nhờ có chiếc cầu gỗ nên mới có Xóm Cầu Mới. 

Xóm Cầu Mới lập thành là do sự tiện lợi. Gia đình bác Lê là gia đình đầu tiên đến ở xóm. Hai mươi năm trước, nước sông Hàn lên to và chảy xiết, thuyền đánh cá của bác bị đắm và nhờ có chiếc cầu nên hai vợ chồng và đứa con đầu lòng sống sót; thuyền đắm đồ đạc mất hết, trời lại mưa to luôn mấy hôm. Nhờ có cái hốc ở cây đa nên gia đình bác Lê có chỗ tạm lánh. Ngay đêm đầu, bác Lê gái nằm mộng thấy có một bà tiên cho bác một cành hoa và dặn phải quét lá đa cho sạch. Cho là điềm hay, hai vợ chồng bàn đến việc ở hẳn dưới gốc đa. Bác Lê trai mấy hôm liền ra đứng ở cầu nhặt nhạnh các mảnh ván, tấm phên theo nước lụt trôi vướng vào chân cầu và dựng nên cái nhà đầu tiên của Xóm Cầu Mới. 

Gần đây vì cả mạn sông Hàn bên Xóm Cầu Mới được mùa luôn, nên các bà cân gạo bên Phủ Lệ sang dựng rất nhiều quán cân gạo để đón mua trước của những người hàng sáo từ phía đó đi đến. Vì có các bà sang cân gạo nên mới có hàng bánh cuốn của cô Mùi, hàng cơm của bà cụ Yểng và nhờ có hàng cơm của bà cụ Yểng mới có gia đình ông Năm Bụng bán rượu lậu. Xóm lại gần Phủ nhưng vừa đủ xa để tiện việc nên có cả một nhà hát ả đào, và vì tiện nước nên có cả nhà bán áo quan. 

Số đông dân xóm là những người ở nơi khác vì nghèo đói phải tha phương cầu thực rồi đến đấy thấy dễ làm ăn thì ở lại hẳn như những đám bèo giạt từ trăm ngả nước xa trôi về vương bám vào chân cầu. Hai người ở xa nhất đến có lẽ là hai cụ Huế Cả, Huế Hai; không biết duyên do gì hai cụ Huế nghèo như vậy mà từ ở trong Huế xa xôi đem nhau đến ở xóm; không ngày nào là hai cụ không cãi nhau và tiếng cãi nhau lanh lảnh bằng giọng Huế mỗi buổi chiều đưa vang khắp xóm nghe thực lạc loài, lạ tai. 

Cả xóm không có một căn nhà gạch hay nhà gỗ nào. Toàn là những nhà tranh lụp xụp, xiêu vẹo; trông cũng cũ kỹ như chiếc cầu gỗ chỉ có cái tên là mới. Có mỗi một nhà bà Ký Ân cân gạo làm bằng gỗ lợp ngói thì lại ở cách xóm đến hơn trăm thước. 

Cây đa của xóm người ta gọi là cây đa Cốc vì cốc ở khắp vùng thấy cây đa cao nhất và an toàn nhất đến đậu và ỉa trắng xoá cả lá cây. Người ở các nơi xa có việc lên Phủ thường vẫn lấy cây đa đó làm cái đích để biết được đường còn xa hay gần. Cây đa Cốc to đến nỗi "theo lời bác Lê gái nói đùa một cách nửa than phiền, nửa tự cao rằng sớm quét, chiều quét, quét đã gần hai mươi năm mà chưa hết lá.

-----------------------------------

Vài nét về tác giả Nhất Linh

Nhất Linh tên thật là Nguyễn Tường Tam (sinh 1906 - mất ngày 7 tháng 7 năm 1963) là một nhà văn, nhà báo với bút danh Nhất Linh, Tam Linh, Bảo Sơn, Lãng Du, Tân Việt, Đông Sơn (khi vẽ); và cũng là chính trị gia nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 20.

Ông là người thành lập Tự Lực văn đoàn và là cây bút chính của nhóm, và từng là Chủ bút tờ tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay. Về sau, ông còn là người sáng lập Đại Việt Dân chính Đảng, từng làm Bí thư trưởng của Việt Nam Quốc dân Đảng (khi Đại Việt Dân chính Đảng hợp nhất với Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng) và giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến.

Thân thế

Ông sinh ra tại phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Nguyên quán của ông là làng Cẩm Phô, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam [2].

Ông nội Nguyễn Tường Tam là Nguyễn Tường Tiếp, làm tri huyện Cẩm Giàng, gọi là Huyện Giám, rồi về hưu tại đây. Cụ có người con trai duy nhất là Nguyễn Tường Chiếu (húy Nhu) làm Thông phán, nên được gọi là Thông Nhu, hay Phán Nhu. Ông Nhu mất năm 1918 khi mới 37 tuổi. Ông lập gia đình với bà Lê Thị Sâm [3], và có được 7 người con:

Nguyễn Tường Thụy, tổng giám đốc bưu điện...
Nguyễn Tường Cẩm, kỹ sư canh nông, giám đốc báo Ngày Nay
Nguyễn Tường Tam, tức nhà văn Nhất Linh
Nguyễn Tường Long, tức nhà văn Hoàng Đạo
Nguyễn Thị Thế
Nguyễn Tường Lân (Vinh), tức nhà văn Thạch Lam
Nguyễn Tường Bách, bác sĩ.

Gia đình Nguyễn Tường Tam sống ở Cẩm Giàng, một huyện nhỏ. Cha ông mất sớm, cả nhà lâm vào cảnh khó khăn. Từ bé, anh em Nguyễn Tường Tam đã tiếp xúc với những người nông dân nghèo khổ, điều đó ảnh hưởng đến văn học của Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Thạch Lam sau này.

Cuộc đời và sự nghiệp

Thời niên thiếu

Thuở nhỏ, Nguyễn Tường Tam theo học tiểu học ở Cẩm Giàng, học trung học tại trường Bưởi ở Hà Nội. Năm 16 tuổi, Nguyễn Tường Tam làm thơ đăng báo Trung Bắc Tân Văn, và năm 18 tuổi ông có bài “Bình Luận Văn Chương về Truyện Kiều” trên Nam Phong tạp chí .

Cuối năm 1923 ông đậu bằng Cao tiểu. Nhưng vì chưa đến tuổi vào trường cao đẳng, nên ông làm thư ký ở sở tài chính Hà Nội. Ông làm quen với Tú Mỡ và viết cho tờ Nho Phong. Thời gian đó, ông lập gia đình với bà Phạm Thị Nguyên.

Năm 1924, ông tiếp tục học ngành Y và Mỹ Thuật, nhưng chỉ một năm rồi bỏ. Năm 1926, Nguyễn Tường Tam vào Nam, gặp Trần Huy Liệu và Vũ Đình Di định cùng làm báo. Nhưng vì tham dự đám tang Phan Chu Trinh nên hai người này bị bắt, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang Cao Miên, sống bằng nghề vẽ và tìm đường đi du học.

Năm 1927, Nguyễn Tường Tam sang Pháp du học. Ở nơi ấy, ông vừa học khoa học, vừa nghiên cứu về nghề báo và nghề xuất bản. Năm 1930, ông đậu bằng Cử nhân Khoa học Giáo khoa (Lý, Hóa) và trở về nước trong năm đó.

Hoạt động văn chương

Trở về nước, Nguyễn Tường Tam xin ra tờ báo trào phúng "Tiếng cười", nhưng lần nào hỏi thăm đều nghe Sở Báo chí của Phủ Thống sứ bảo rằng “chờ xét”[4]. Trong thời gian chờ đợi giấy phép ra báo, ông xin dạy học tại trường tư thục Thăng Long. Ở đó ông quen biết với thầy giáo dạy Việt văn là Trần Khánh Giư (tức Khái Hưng).

Năm 1932, Nguyễn Tường Tam mua lại tờ tuần báo Phong Hóa của Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai, và trở thành Giám đốc kể từ số 14, ra ngày 22 tháng 9 năm 1932[5]. Ông chủ trương dùng tiếng cười trào phúng để đả kích các hủ tục phong kiến, hô hào "Âu hóa", đề cao chủ nghĩa cá nhân...[6]. Trong năm ấy, ông và các cộng sự quyết định thành lập Tự Lực văn đoàn trên nguyên tắc "dựa vào vào sức mình, theo tinh thần anh em một nhà. Tổ chức không quá 10 người để không phải xin phép Nhà nước, chỉ nêu ra trong nội bộ mục đích tôn chỉ, anh em tự nguyện tự giác noi theo"[7]. Về sau, tính chuyện lâu dài, văn đoàn này mới chính thức tuyên bố thành lập ngày 2 tháng 3 năm 1934 (báo Phong Hóa số 87).

Tháng 6 năm 1935, báo Phong Hóa bị nhà cầm quyền ra lệnh đóng cửa ba tháng vì loạt bài "Đi xem mũ cánh chuồn " châm biếm Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu. Sau đó ra tiếp được hơn một năm, thì bị đóng cửa vĩnh viễn (số cuối 190 ra ngày 5 tháng 6 năm 1936) cũng vì tội "chế nhạo"[8]. Tờ tuần báo Ngày Nay[9], trước ra kèm với Phong Hóa, tiếp tục và kế tiếp Phong Hóa. Tháng 12 năm 1936, trên báo Ngày Nay, Nguyễn Tường Tam cùng nhóm Tự Lực văn đoàn phát động phong trào Ánh Sáng, một tổ chức từ thiện với mục đích cải tạo nếp sống ở thôn quê, trong đó có việc làm nhà hợp vệ sinh cho dân nghèo...

Hoạt động chính trịNăm 1938, Nguyễn Tường Tam thành lập Đảng Hưng Việt, rồi đổi tên là Đại Việt Dân chính Đảng năm 1939 mà ông làm Tổng Thư ký. Hoạt động chống Pháp của nhóm Tự Lực trở thành công khai.

Năm 1940, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí bị thực dân Pháp bắt và đày lên Sơn La, đến năm 1943 mới được thả. Trong thời gian này, Thạch Lam và Nguyễn Tường Bách tiếp tục quản trị tờ Ngày Nay. Tháng 9 năm ấy, báo Ngày Nay bị đóng cửa sau khi ra số 224.

Năm 1942 Nhất Linh chạy sang Quảng Châu. Thạch Lam mất tại Hà Nội vì bệnh lao. Đại Việt Dân chính Đảng thì đã gần như tan rã. Trong thời gian từ 1942 đến 1944, ông học Anh Văn và Hán văn.

Tại Quảng Châu và Liễu Châu ông gặp Nguyễn Hải Thần và Hồ Chí Minh mới ở tù ra. Nguyễn Tường Tam cũng bị giam bốn tháng ở Liễu Châu, được Nguyễn Hải Thần bảo lãnh mới được Trương Phát Khuê thả ra. Nguyễn Tường Tam hoạt động trong Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội, rồi về Côn Minh hoạt động trong hàng ngũ Việt Nam Quốc dân đảng, tá túc với Vũ Hồng Khanh. Tháng 3 năm 1944, tại Liễu Châu, Nguyễn Tường Tam được bầu làm ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội, tức Việt Cách.

Giữa năm 1945, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Giang cùng quân đội, nhưng rồi lại quay lại Côn Minh và đi Trùng Khánh. Giai đoạn này đã được phản ánh trong tiểu thuyết Giòng sông Thanh Thủy. Theo lệnh của Nhất Linh từ Trung Quốc gửi về, báo Ngày Nay, với Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nguyễn Tường Bách, lại tục bản, khổ nhỏ, ngày 5 tháng 3 năm 1945 và trở thành cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Tháng 5 năm 1945, tại Trùng Khánh, ông sáp nhập Đại Việt Dân chính đảng với Việt Nam Quốc dân đảng là Đại Việt Quốc dân Đảng, tên gọi mới trong nước, còn tên gọi ở hải ngoại, nhất là tại Trung Quốc là Việt Nam Quốc dân đảng, tránh dùng danh xưng Đại Việt vì lý do tế nhị trong giao tế với bạn đồng minh Trung Hoa. Nguyễn Tường Tam làm Bí Thư Trưởng [10] của tổ chức mới này. Cuối năm 1945 tổ chức này ra công khai với danh xưng Mặt trận Quốc dân Đảng, gọi chung là Việt Nam Quốc dân Đảng, hay Việt Quốc.

Sau khi quân Tưởng vào Việt Nam, đầu năm 1946 Nguyễn Tường Tam trở về Hà Nội, tổ chức hoạt động đối lập chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xuất bản báo Việt Nam. Tháng 3 năm 1946, sau khi đàm phán với chính phủ, ông giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến[11].

Ông cũng tham gia Quốc hội khóa I đặc cách không qua bầu cử.

Nguyễn Tường Tam được cử làm Trưởng đoàn Việt Nam dự Hội nghị trù bị Đà Lạt đàm phán với Pháp, nhưng lại không tham gia bất cứ cuộc họp nào trong hội nghị. Ông được cử đứng đầu Phái đoàn Việt Nam dự Hội nghị Fontainebleau nhưng không đi mà rời bỏ Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, lưu vong sang Trung Quốc tháng 5 năm 1946 và ở lại Hồng Kông cho tới 1951. Sau đó xảy ra sự kiện vụ án phố Ôn Như Hầu, lực lượng công an khám xét các của cơ sở Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng bắt giữ nhiều đảng viên hai đảng này, và tịch thu được nhiều vũ khí truyền đơn khẩu hiệu chống chính quyền. Khi Nguyễn Tường Tam rời bỏ chính phủ, chính phủ đã tuyên bố Nguyễn Tường Tam đào nhiệm và biển thủ công quỹ đem đi.

Năm 1947, Nguyễn Tường Tam cùng Trần Văn Tuyên, Phan Quang Đán, Nguyễn Văn Hợi, Nguyễn Hải Thần, Lưu Đức Trung thành lập Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp ủng hộ giải pháp Bảo Đại thành lập Quốc gia Việt Nam, chống cả Việt Minh lẫn Pháp, nhưng đến năm 1950 thì mặt trận này giải thể.

Năm 1951, về nước mở nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản sách của Tự Lực Văn Đoàn, và tuyên bố không tham gia các hoạt động chính trị nữa. Năm 1953, Nguyễn Tường Tam lên sống tại Đà Lạt. Tuy nhiên trong Quốc dân Đảng vẫn tồn tại phái Nguyễn Tường Tam, cạnh tranh với hai phái khác.

Năm 1958, rời Đà Lạt về Sài Gòn, ông mở giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay ở Sài Gòn, phát hành được 11 số thì bị đình bản. Năm 1960 ông về Sài Gòn thành lập Mặt trận Quốc dân Đoàn kết, ủng hộ cuộc đảo chính của Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông. Đảo chính thất bại, ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm giam lỏng tại nhà riêng.

Ông bị chính phủ Ngô Đình Diệm gọi ra xử ngày mùng 8 tháng 7 năm 1963. Đêm 7 tháng 7, tại nhà riêng, nghe tin sẽ bị đưa ra tòa xét xử, Nguyễn Tường Tam dùng thuốc độc quyên sinh để phản đối chính quyền độc tài của Ngô Đình Diệm, để lại phát biểu nổi tiếng:

"Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội những phần tử quốc gia đối lập là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay Cộng sản. Vì thế tôi tự hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu là để cảnh cáo những ai chà đạp mọi thứ tự do."[12] ”

Gia đìnhVợ ông là bà Phạm Thị Nguyên (1909-1981), quê làng Phượng Dực, Thường Tín, tỉnh Hà Đông. Tuy là người Tây học, nhưng cuộc hôn nhân này do cha mẹ ông quyết định. Vợ ông trước năm 1945 là chủ hiệu buôn cau khô có tiếng ở Hà Nội mang tên Cẩm Lợi ở số 15 phố Hàng Bè. Bà mất tại Pháp ngày 6 tháng 5 năm 1981.

Ông có 7 người con, gồm 5 con trai (Nguyễn Tường Việt, Nguyễn Tường Triệu, Nguyễn Tường Thạch, Nguyễn Tường Thiết, Nguyễn Tường Thái) và 2 con gái (Nguyễn Kim Thư, Nguyễn Kim Thoa)[13].

Nơi an nghỉ

Ngày 7 tháng 7 năm 1963, Nhất Linh đã quyên sinh bằng rượu pha độc dược. Theo lệnh của nhà cầm quyền lúc bấy giờ, gia đình phải chôn ông gấp tại nghĩa trang chùa Giác Minh ở Gò Vấp, không cho đợi người con cả của ông ở Pháp về dự lễ tang. Năm 1975, Nguyễn Tường Thạch (con trai Nhất Linh) đã hỏa thiêu di cốt của cha, rồi gửi bình tro tại chùa Kim Cương, đường Trần Quang Diệu, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1981, bà Nhất Linh sang Pháp đoàn tụ với các con, rồi qua đời và an táng tại đó. Năm 2001, các con mới quyết định di dời hài cốt của cha mẹ cùng chị gái lớn là Nguyễn Thị Thư về trong khu mộ của dòng họ tại Hội An (Quảng Nam)[14].

Tác phẩm

Tiểu thuyết

Gánh hàng hoa (cùng Khái Hưng, 1934)
Đời mưa gió (cùng Khái Hưng, 1934)
Nắng thu (1934)
Đoạn tuyệt (1934-1935)
Lạnh lùng (1935-1936)
Đôi bạn (1936-1937)
Bướm trắng (1938-1939)
Xóm cầu mới (1949-1957). Trường thiên, viết dở dang.
Giòng sông Thanh Thủy (1960-1961). Trường thiên, tác phẩm cuối cùng, gồm ba tập:
Ba người bộ hành
Chi bộ hai người
Vọng quốc

Tập truyện

Nho phong (1924)
Người quay tơ (1926)
Anh phải sống (cùng Khái Hưng, 1932 - 1933)
Đi Tây (1935)
Hai buổi chiều vàng (1934-1937)
Thế rồi một buổi chiều (1934-1937)
Thương chồng (1961)

Tiểu luận

Viết và đọc tiểu thuyết (1952-1961)

Dịch phẩm

Đỉnh gió hú của Emily Bronte (đăng báo 1960, xuất bản 1974)[15]

Hội họa

Mặc dầu thời gian theo học Trường Mỹ thuật không lâu, Nhất Linh cũng đã để lại một số tranh vẽ trong đó có bức Scène de Marché de rue Indochinois (Cảnh Phố Chợ Đông Dương) vẽ trên lụa thực hiện khoảng 1926-1929. Bức tranh này năm 2010 được hãng Sotheby's bán đấu giá ở Hương Cảng với giá 596.000 Đô la Hồng Kông, tương đương với 75.000 Mỹ kim.[16]

Chú thích

1. Căn cứ lá số tử vi lập cho cả nhà từ cuối những năm 40, thì ông sinh vào "giờ Dậu ngày 25 tháng 7 năm Bính Ngọ, tức khoảng hơn 17 giờ ngày 13 tháng 9 năm 1906" (Vu Gia, Nhất linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học, Nxb Văn hóa, 1995, tr. 5). Trong quyển Hồi ký họ Nguyễn Tường của Nguyễn Thị Thế (em ruột Nhất Linh) do Sóng xuất bản năm 1974 tại Sài Gòn cũng ghi ông sinh năm 1906, còn thẻ căn cước số F 13108 (lập ngày 19 tháng 2 năm 1951) ghi ngày 1 tháng 2 năm 1905, là do ông làm lại giấy khai sinh để đủ tuổi dự thi. Tuy nhiên, không biết lấy nguồn từ đâu, trang web của Bộ ngoại giao Việt Nam và sách Lược truyện tác gia Việt Nam (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972) đều ghi ông sinh ngày 25 tháng 7 năm 1925. Sách Từ điển văn học (bộ mới, tr. 1255) cũng ghi ông sinh vào ngày 27 tháng 5, nhưng lại là năm 1906.

2. Họ Nguyễn Tường, một dòng dõi quan từ đời ông Nguyễn Tường Vân là Binh bộ Thượng thư của vua Gia Long. Chữ Tường là bởi vua Gia Long đi đến chân núi Phước Tường (Hội An) thì hỏi mọi người núi này là núi gì, ông trả lời “Thưa Chúa đây là núi Phước Tường”. Vua Gia Long nói với ông Nguyễn Tường Vân đi bên cạnh là hầu cận rất thân “Phước là họ ta nhưng Tường thì ta ban cho nhà ngươi”. Từ đó trở đi thì mới là họ Nguyễn Tường, trước thì chỉ Nguyễn không thôi. Nguồn: Theo nhà văn, họa sĩ Duy Lam (gọi Nhất Linh là cậu). [1].

3.^ Xem chi tiết ở đây [2] và thông tin về dòng họ Nguyễn Tường ở trang Thạch Lam.
4.^ Theo Tú Mỡ (Vu Gia dẫn lại, tr. 24).
5.^ Xem và download tại đây [3].
6.^ Theo Nguyễn Hoành Khung, mục từ "Nhất Linh" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004, tr. 1255.,
7.^ Theo Vu Gia, sách đã dẫn, tr. 26.
8.^ Theo GS. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3, Sài Gòn, 1965, tr. 442) và Khúc Hà Linh, Anh em Nguyễn Tường Tam... (Nxb Thanh niên, 2008). Ông Linh cho biết: nhà thơ Tú Mỡ từng hồi ức rằng, dạo ấy báo Phong Hóa liên tục xoáy sâu vào chế nhạo và châm biếm triều đình Huế, nên nhà cầm quyền Pháp lấy cớ tờ báo đăng truyện "Hậu Tây du", nói cạnh khoé đến những nhân vật mới trong triều đình thân Pháp ấy mà đóng cửa báo. Xem online ở đây: [4].
9.^ Tuần báo Ngày Nay ra số đầu ngày 30 tháng 1 năm 1935, ra số cuối 224 ngày 7 tháng 9 năm 1940.
10.^ Có tài liệu nói ông giữ chức Tổng Thư ký
11.^ Có tài liệu gọi đây là Chính phủ liên hiệp quốc gia.
12.^ Tự điển danh nhân thế giới, phần nói về Nhất Linh - sách của Trịnh Chuyết, Thế Giới xuất bản năm 1970 tại Saigon.
13.^ Nguyễn Tường Thiết. Nhất Linh cha tôi. Gardena, CA: Văn Mới, 2006.
14.^ Theo sách Anh em Nguyễn Tường Tam... của Khúc Hà Linh (Nxb Thanh niên, 2008, tr. 59) và bài viết Nắm đất đưa về tất đất xưa của nhà văn Phạm Phú Minh in trong tạp chí Thế kỷ 21, số tháng 7 năm 2002.
15.^ Nhất Linh bắt đầu dịch từ năm 1952, đăng một phần trên Nguyệt san Tân Phong, Sài Gòn, 1960. Bản thảo còn lại cho thấy ông vẫn tiếp tục dịch vào năm 1962 nhưng không kết thúc. Ông Nguyễn Tường Thiết nhờ nhà văn Bảo Sơn dịch bổ sung để xuất bản: Nhà xuất bản Phượng Giang, Sài Gòn, 1974. Sau 1975, ông Thiết không có ấn bản 1974 nên tự dịch lại phần bổ sung. Nguồn: Emily Bronte, Đỉnh Gió Hú, Nhất Linh, Nguyễn Tường Thiết dịch
16.^ "Hai vẻ đẹp của Nhất Linh" đăng trên DCV

( Theo từ điển mở Wikipedia)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét