Thứ Ba, 24 tháng 12, 2013

Khung cửa hẹp (André Gide, Bùi Giáng dịch, xuất bản 1966)


(Vangbongmotthoi) - Khung cửa hẹp là tiểu thuyết kinh điển, nổi tiếng toàn thế giới của nhà văn Pháp André Gide, tại Việt Nam, từ năm 1966 nhà thơ Bùi Giáng đã dịch và in cuốn tiểu thuyết này.

Bùi Giáng được biết đến là một nhà thơ và dịch giả rất nổi tiếng, đặc biệt ở Miền Nam trước những năm 1975. Ông viết và dịch rất sung sức. Ông còn nổi tiếng về phong cách và tính khí có phần "điên" và lập dị của mình.

Bùi Giáng có rất nhiều tác phẩm dịch được xuất bản, trong đó có cuốn Khung cửa hẹp của văn hào Pháp André Gide. Đây là một cuốn tiểu thuyết rất hay và lãng mạn - (nhưng khó đọc, chỉ dành cho những người đọc sách có đẳng cấp cao) về tình yêu, sự hy sinh trong tình yêu và tranh đấu nội tâm giữa cõi thực và hư vô trong đạo giáo. Một tác phẩm rất nổi tiếng trên toàn thế giới. Hiện nay có thể tìm thấy tác phẩm này ở nhiều nhà sách tại Việt Nam (tái bản).

Dưới đây là ảnh bìa cuốn Khung cửa hẹp do Bùi Giáng dịch, xuất bản lần đầu bởi nhà xuất bản An Tiêm năm 1966.

Tình trạng: hiếm

Xem thêm về nhà thơ Bùi Giáng cuối bài viết này.

Hoa Văn

------------------------






---------------------

Vài nét về nhà thơ Bùi Giáng

Bùi Giáng (1926-1998), là nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông là: Trung niên thi sĩ, Thi sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng...Ông nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ Mưa nguồn.

Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Cha ông là Bùi Thuyên, thuộc đời thứ 16 của dòng họ Bùi ở Quảng Nam. Do người vợ cả qua đời sớm nên ông lấy người vợ kế là bà Huỳnh Thị Kiền. Bùi Giáng là con đầu của Bùi Thuyên với Huỳnh Thị Kiền, nhưng là con thứ 5 nếu tính tất cả các anh em. Khi vào Sài Gòn, ông được gọi theo cách gọi miền Nam là Sáu Giáng.

Năm 1933, ông bắt đầu đi học tại trường làng Thanh Châu.

Năm 1936, ông học trường Bảo An (Điện Bàn) với thầy Lê Trí Viễn.

Năm 1939, ông ra Huế học tư tại Trường trung học Thuận Hóa. Trong số thầy dạy ông có Cao Xuân Huy, Hoài Thanh, Đào Duy Anh.

Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, nhưng sau đó ông cũng kịp đậu bằng Thành chung.

Năm 1949, ông tham gia kháng chiến chống Pháp, làm bộ đội Công binh.

Năm 1950, ông thi đỗ tú tài đặc biệt do Liên khu V tổ chức, được cử tới Hà Tĩnh để tiếp tục học. Từ Quảng Nam phải đi bộ theo đường núi hơn một tháng rưỡi, nhưng khi đến nơi, thì ông quyết định bỏ học để quay ngược trở về quê, để đi chăn bò trên vùng rừng núi Trung Phước.

Năm 1952, ông trở ra Huế thi tú tài 2 ban Văn chương. Thi đỗ, ông vào Sài Gòn ghi danh học Đại học Văn khoa. Tuy nhiên, theo T. Khuê thì sau khi nhìn danh sách các giáo sư giảng dạy lại, ông quyết định chấm dứt việc học và bắt đầu viết khảo luận, sáng tác, dịch thuật và đi dạy học tại các trường tư thục [1].

Năm 1965, nhà ông bị cháy làm mất nhiều bản thảo của ông.

Năm 1969, ông "bắt đầu điên rực rỡ" (chữ của Bùi Giáng). Sau đó, ông "lang thang du hành Lục tỉnh" (chữ của Bui Giáng), trong đó có Long Xuyên, Châu Đốc...

Năm 1971, ông trở lại sống ở Sài Gòn. Thi sĩ Bùi Giáng mất lúc 2 giờ chiều ngày 7 tháng 10 năm 1998, sau một cơn tai biến mạch máu tại bệnh viện Chợ Rẫy (Thành phố Hồ Chí Minh, tức Sài Gòn cũ) sau những năm tháng sống "điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang" (chữ của Bùi Giáng).

Tác phẩm

Tập thơ

Mưa nguồn (1962)
Lá hoa cồn (1963)
Màu hoa trên ngàn (1963)
Ngàn thu rớt hột (1963)
Bài ca quần đảo (1963)
Sa mạc trường ca (1963)
Sa mạc phát tiết (1969)
Mùi Hương Xuân Sắc (1987)
Rong rêu (1995)
Đêm ngắm trăng (1997)
Thơ Bùi Giáng (Montréal, 1994)
Thơ Bùi Giáng (California, 1994)…
Mười hai con mắt (2001)
Thơ vô tận vui (2005)
Mùa màng tháng tư (2007)

Nhận định

Nhận xét về Bà Huyện Thanh Quan
Nhận xét về Lục Vân Tiên
Nhận xét về Chinh phụ ngâm và Quan Âm Thị Kính.
Nhận xét về truyện Kiều và truyện Phan Trần.

Tất cả đều được xuất bản năm 1957.

Giảng luận

Giảng luận về Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu.
Giảng luận về Chu Mạnh Trinh
Giảng luận về Tôn Thọ Tường
Giảng luận về Phan Văn Trị
Tất cả đều được xuất bản năm 1957-1959.

Triết học

Tư tưởng hiện đại (1962)
Martin Heidgger và tư tưởng hiện đại I và II (1963)
Sao gọi là không có triết học Heidgger? (1963)
Dialoque (viết chung, 1965)

Tạp văn

Các sách xuất bản năm 1969, có:.
Đi vào cõi thơ
Thi ca tư tưởng
Sa mạc phát tiết
Sương bình nguyên 
Trăng châu thổ
Mùa xuân trong thi ca.
Thúy Vân

Các sách xuất bản năm 1970, có:
Biển Đông xe cát
Mùa thu trong thi ca.

Các sách xuất bản năm 1971, có:
Ngày tháng ngao du
Đường đi trong rừng
Lời cố quận
Lễ hội tháng Ba
Con đường ngã ba-Bước đi của tư tưởng…

Sách dịch

Các sách xuất bản năm 1966, có:
Trăng Tỳ hải
Cõi người ta
Khung cửa hẹp
Hoa ngõ hạnh
Othello

Các sách xuất bản năm 1967, có:
Bạo chúa Caligula
Ngộ nhận
Kim kiếm điêu linh

Các sách xuất bản năm 1968, có:
Con đường phản kháng
Mùa hè sa mạc
Kẻ vô luân

Các sách xuất bản năm 1969, có:
Nhà sư vướng luỵ
Ophélia Hamlet
Hòa âm điền dã

Các sách xuất bản năm 1973 và 1974, có:
Hoàng Tử Bé (1973)
Mùa xuân hương sắc (1974)...

Hiện nay, nhiều tác phẩm của ông đã và đang được tái bản và xuất bản trong và ngoài nước

(Theo từ điển mở Wikipedia)

3 nhận xét:

  1. Nhận xét này đã bị tác giả xóa.

    Trả lờiXóa
  2. dịch giả rác,Đừng dịch ngẫu nhiên, Madeleine Rondeaux và Alissa lớn hơn tác giả/nhân vật chính hai tuổi và là chị họ.chị họ.chị họ.

    Trả lờiXóa