Ông tên thật là Lê Khâm, sinh ngày 20 tháng 12 năm 1930 tại thị xã Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Ông là người con thứ tư và cũng là người con trai duy nhất trong gia đình có 7 người con. Thân sinh ông là ông Lê Ấm (1897-1976), từng làm Đốc học ở trường Quốc học Huế. Thân mẫu của ông là bà Phan Thị Châu Liên (1901-?), tục gọi là cô Đậu, vốn là con gái đầu của nhà Chí sĩ Phan Châu Trinh.
Sự nghiệp văn chương
Tuy sinh ở Bình Định nhưng suốt thời niên thiếu, Phan Tứ lại sống ở quê cha ở Quế Phong, Quế Sơn, Quảng Nam. Vốn sinh trong gia đình có truyền thống học giỏi, ông từ nhỏ đã khá giỏi về môn văn và tiếng Pháp. Năm 15 tuổi, ông đã tham gia hoạt động trong đội tuyên truyền xung phong của tỉnh Quảng Nam và tham gia cướp chính quyền ở địa phương trong Cách mạng tháng Tám.
Năm 1950, ông nhập ngũ, theo học Trường lục quân Trần Quốc Tuấn, phân hiệu Trung Bộ (Cồn Kênh, Thọ Xuân, Nông Cống, Như Xuân, Thanh Hóa). Cuối năm 1951, sau khi tốt nghiệp, ông được phân công theo đội quân tình nguyện Việt Nam sang chiến đấu ở chiến trường Hạ Lào. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc. Năm 1958, ông theo học khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Cũng năm này, ông đã viết cuốn "Bên kia biên giới" với bút danh Lê Khâm, viết về cuộc chiến đấu của quân tình nguyện Việt Nam tại Hạ Lào. Năm 1960, ông lại giới thiệu cuốn "Trước giờ nổ súng" với cùng đề tài trên. Cả 2 quyển sách được đánh giá cao, và ông trở thành một nhà văn tên tuổi thời bấy giờ khi mới vừa tròn 30 tuổi.
Sau khi tốt nghiệp năm 1961, ông được phân công trở lại công tác tại chiến trường Miền Nam, làm phái viên tuyên truyền khu ủy Liên khu V, ủy viên đảng đoàn Văn nghệ khu 5, và viết văn dưới bút danh Phan Tứ
Các tác phẩm tiêu biểu
* Bên kia biên giới (tiểu thuyết, 1958, tái bản 1978)
* Trước giờ nổ súng (tiểu thuyết, 1960)
* Trở về Hà Nội (truyện ngắn, 1960)
* Trên đất Lào (bút ký, 1961)
* Nhật ký chiến trường (di cảo, viết bằng 4 thứ tiếng Việt, Lào, Pháp, Nga)
* Về làng (1964)
* Trong đám nứa (truyện ngắn, 1968)
* Gia đình má Bảy (tiểu thuyết, 1968, tái bản 1971, 1972, 1975)
* Măng mọc trong lửa (bút ký, 1972, 1977)
* Mẫn và tôi (tiểu thuyết, 1972, 1975, 1978, 1987, 1995)
* Trại ST 18 (tiểu thuyết, 1974)
* Trong mưa núi (hồi ký, 1984, 1985)
* Sông Hằng mẹ tôi (dịch từ tiếng Pháp, tiểu thuyết Ấn Độ, 1984, 1985)
* Người cùng quê (tiểu thuyết 3 tập, 1985, 1995, 1997, chưa hoàn thành)
Các giải thưởng
* Giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu
* Giải thưởng 30 năm (1945 - 1975) của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng;
* Giải thưởng văn học loại A mười năm (1985 - 1995) của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
* Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt II năm 2000.
(Theo Wikipedia)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét