(Vangbongmotthoi) - Kép Tư Bền là cuốn truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Công Hoan, xuất bản lần đầu năm 1935.
Nguyễn Công Hoan là một nhà văn lớn của Việt Nam, tên tuổi của ông gắn với giai đoạn nửa đầu thế kỷ 20.
Kép tư Bền là một truyện ngắn rất nổi tiếng của ông, nói về nỗi đắng cay của người nghệ sỹ trong thời kỳ thuộc Pháp. Mà cụ thể là anh kép Tư Bền nghe tin cha mình vừa qua đời nhưng vẫn phải lên sân khấu diễn hài kịch!
Dưới đây là bìa cuốn truyện Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan, do Tiểu thuyết thứ Bảy xuất bản lần đầu năm 1935.
Tình trạng sách: cực hiếm
Xem thêm về nhà văn Nguyễn Công Hoan cuối bài viết này.
Hoa Văn
-------------------------------
------------------------------
Vài nét về nhà văn Nguyễn Công Hoan
Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên (thời ấy thuộc tỉnh Bắc Ninh). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương), Nguyễn Công Bồng và Nguyễn Công Mỹ.
Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,...) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ 9 năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ).
Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội. Tên ông được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn Chí Thanh. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.
Tác phẩm
Ông để lại một di sản nghệ thuật với hơn 200 truyện ngắn, gần 30 truyện dài và nhiều tiểu luận văn học, các tác phẩm chính của ông là:
* Kiếp hồng nhan (truyện ngắn, 1923)
* Răng con chó của nhà tư sản (truyện ngắn, 1929; đăng Annam tạp chí số 23 năm 1931 với nhan đề Răng con vật nhà tư bản)
* Hai thằng khốn nạn (truyện ngắn, 1930)
* Thật là phúc (truyện ngắn, 1931)
* Người ngựa, ngựa người (truyện ngắn, 1931)
* Thế là mợ nó đi tây (truyện ngắn, 1932)
* Xin chữ cụ nghè (truyện ngắn, 1932)
* Tắt lửa lòng (truyện dài, 1933)
* Lá ngọc cành vàng (tiểu thuyết, 1934)
* Kép Tư Bền (tập truyện ngắn, 1935)
* Cô làm công (tiểu thuyết, 1936)
* Oẳn tà roằn (truyện ngắn, 1937)
* Vợ (truyện ngắn, 1937)
* Bước đường cùng (tiểu thuyết, 1938)
* Tinh thần thể dục (truyện ngắn, 1939)
* Phành phạch (truyện ngắn, 1939)
* Cái thủ lợn (tiểu thuyết, 1939)
* Nông dân và địa chủ (truyện ngắn, 1955)
* Tranh tối tranh sáng (truyện dài, 1956)
* Người cặp rằng hầm xay lúa ở ngục Côn Lôn 1930 (1960)
* Hỗn canh hỗn cư (truyện dài, 1961)
* Đống rác cũ (tiểu thuyết, 1963)
* Ðời viết văn của tôi (hồi ký, 1971)
* Tuyển tập Nguyễn Công Hoan (3 tập)
Năm 1936, truyện dài Tắt lửa lòng của ông đã được Trần Hữu Trang chuyển thể thành vở cải lương nổi tiếng Lan và Điệp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét