Thứ Ba, 24 tháng 12, 2013

Lẵng hoa hồng (Yến Lan, xuất bản 1968)


(Vangbongmotthoi) - Lẵng hoa hồng là tập thơ của thi sỹ Yến Lan, xuất bản năm 1968.

Yến Lan là một nhà thơ nổi tiếng, sáng tác thơ từ khi còn rất trẻ. Cùng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Quách Tấn hợp thành nhóm Bàn thành tứ hữu (bốn người bạn thơ đất Bình Định) nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam những năm 1940 thế kỷ trước.

Dưới đây là bìa tập thơ Lẵng hoa hồng của Yến Lan, do nhà xuất bản Văn Học xuất bản năm 1968. Đây là tập thơ xuất bản trên đất Bắc trong thời kỳ đất nước chia cắt, chiến tranh.

Tình trạng sách: hiếm.

Xem thêm về nhà thơ Yến Lan ở phần dưới.

-------------------



---------------------------

Vài nét về nhà thơ Yến Lan

Yến Lan (1916-1998), tên thật là Lâm Thanh Lang, là một nhà thơ, nhà viết kịch Việt Nam. Ông còn có bút danh khác là Xuân Khải.

Yến Lan sinh ngày 2 tháng 3 năm 1916, quê tại thị trấn Bình Định, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Mồ côi mẹ năm 6 tuổi, Yến Lan sống bằng nghề dạy học tư và viết văn. Ông sáng tác thơ từ sớm và cùng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Quách Tấn hợp thành Bàn thành tứ hữu (bốn người bạn thơ đất Bình Định) nổi tiếng trên thi đàn lúc đó. Trong giai đoạn này, ông cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên sáng tác theo trường phái Thơ loạn (còn gọi là Thơ điên) với những trăng, xương, máu, hồn ma... trong thơ. Sau Cách mạng tháng Tám, ông là Uỷ viên văn hoá Cứu quốc Bình Định (1947–1949); là Uỷ viên văn hoá kháng chiến Nam Trung Bộ, trưởng đoàn kịch Kháng chiến. Từ 1950 đến 1954 ông làm công tác văn hoá văn nghệ ở Bình Định.

Sau 1954, Yến Lan tập kết ra Bắc, trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957, làm việc tại Nhà xuất bản Văn học và tham gia phong trào Nhân văn - Giai phẩm.

Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, ông trở về công tác tại Hội văn nghệ Bình Định và mất tại đây ngày 5 tháng 10 năm 1998.

Ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.

Tác phẩm

    * Bóng giai nhân (kịch thơ, viết chung với Nguyễn Bính)
    * Gái Trữ La (kịch thơ, 1943)
    * Những ngọn đèn (thơ, 1957)
    * Tôi đến tôi yêu (thơ, 1965)
    * Lẵng hoa hồng (thơ, 1968)
    * Giữa hai chớp lửa (thơ, 1978)
    * Én Đào (truyện thơ, 1979)
    * Thơ Yến Lan (thơ, 1987)
    * Cầm chân hoa (thơ tứ tuyệt, 1991)
    * Thơ tứ tuyệt (tuyển tập, 1996)

Thành tựu nghệ thuật

Nổi tiếng từ Phong trào Thơ mới với "Bến My Lăng" bất hủ, sau này Yến Lan được đánh giá cao với thơ tứ tuyệt. Nhà thơ, nhà phê bình Trúc Thông đã nhận xét: “Trong số lưa thưa bậc hảo hán của thơ tứ tuyệt Việt nam hiện đại, Yến Lan thuộc loại “bố già”. Một “bố già” hiền lành. Không cân quắc, ngang tàng, vang động. Nhưng vẫn đầy cốt cách trong cung cách âm thầm... Trong tứ tuyệt Yến Lan thường nén lại một nông nỗi thở dài. Có khá nhiều cám cảnh. Nhưng cốt cách nghệ sĩ, cốt cách tứ tuyệt đã gây cho người đọc một sự kính trọng”. Trích bài thơ Bến My Lăng:

Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu... 

(Nguồn: Wikipedia)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét